_ Đóng góp trong ĐẠI HỘI DÂN CHÚA 11/2010
1. Dẫn nhập:
2. Điều gì làm nên căn tính một
con người? căn tính của cộng đoàn?
3. Thực tại nào cho căn tính của
cộng đoàn kitô hữu Việt Nam ?
a) Hỗ trợ sự phát triển đa dạng
của các cộng đoàn địa phương.
b) Duy trì sự hiệp thông trong
Giáo Hội địa phương.
4. Vài đề nghị thêm cho hướng đi
mục vụ.
a) Triển khai Mục Vụ Tiếp Đón
b) Hệ Thống Thông Tin Vĩ Mô,
c) Đào tạo nhân sự
5. Kết:
1. Dẫn nhập:
Giáo Hội tại Việt Nam ước mong
thực hiện cuộc đổi mới. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam thao thức thực hiện cuộc
nhập thể của Giáo Hội vào nền văn hóa đặc thù của địa phương, nhưng vẫn giữ
được căn tính của mình là Giáo Hội Chúa Kitô[1].
Đất nước đang phát triển nhanh
chóng về mọi lĩnh vực, trong bối cảnh toàn cầu hóa, các trào lưu khoa học, văn
hoá, nhân bản - hay dở lẫn lộn - đang tràn ngập vào xã hội Việt Nam, kéo theo
nhiều thay đổi lớn trong sinh hoạt xã hội. Cuộc sống đa văn hóa, đa tôn giáo,
thành thị hóa đang đưa con người hôm nay thoát khỏi khung trời nhỏ hẹp của làng
xóm, của cộng đoàn, của gia đình truyền thống. Cuộc sống đó làm phát sinh nhu
cầu đi tìm lại ý nghĩa cuộc sống con người, xây dựng lại ý thức hệ tôn giáo cho
riêng mình, cho cộng đoàn trong thế giới hôm nay. Người Công Giáo, xuất thân từ
môi trường tôn giáo truyền thống, đang đứng trước nguy cơ lạc lõng, mất hút
trong đám đông, không biết làm sao để thể hiện căn tính người Công Giáo
(identité chrétienne) như xưa. Thanh thiếu niên đang tuổi chuẩn bị bước vào đời
có lẽ dễ bị dao động nhất. Giáo xứ nào cũng có hiện tượng thanh thiếu niên
không thiết tha học giáo lý nữa. Giáo lý viên thường cảm thấy hụt hẫng, không
thể thu hút giới trẻ đến với sinh hoạt tôn giáo. Giới trẻ, một khi phải sống xa
nhà vì công việc hay để đi học - những kẻ di dân nội địa - tức là rời môi
trường gia đình và sinh hoạt giáo xứ, khó có thể sống căn tính Kitô hữu trong
lòng dân tộc. Phải chăng Tin Mừng thành xa lạ với họ ? Phải chăng sống Tin Mừng
- sống đạo - không giúp cho họ tìm được căn tính của mình, không giúp họ thích ứng
với cuộc sống đa chiều hôm nay ? Những kiến thức văn hoá tôn giáo của thế hệ
cha ông truyền đạt lại – mầu nhiệm cứu độ, luân lý đạo đức – như tách rời khỏi
hệ thống giá trị và cấu trúc hiện hành của xã hội.
Căn tính và hoạt động của cộng
đoàn kitô hữu Việt Nam cần được canh tân cho phù hợp với cuộc sống phức tạp hôm
nay. Giáo Hội Việt Nam muốn tìm hướng đi mới qua ba chủ đề: Mầu nhiệm - hiệp
thông - sứ vụ. Có lẽ, theo tôi, đó là ba khía cạnh, 3 góc nhìn khác nhau của
một vấn đề:
Làm thế nào để xây dựng, hình
thành căn tính của cộng đồng dân Chúa trong xã hội hôm nay?
Hướng đi nào Giáo Hội Việt Nam cần
chọn để thể hiện được một sức sống phù hợp với tình hình xã hội – đang trên đà
thay đổi nhanh chóng - mà vẫn giữ được căn tính Giáo Hội của đức Kitô ?
Đó là một thách đố lớn cho Giáo
Hội Việt Nam, một công việc dài hơi của mọi thành phần Dân Chúa. Những suy tư
này không phải là cuộc nghiên cứu về căn tính của Giáo Hội, cũng không tìm cách
giải quyết những xung đột, rạn nứt trong Giáo Hội và với xã hội hiện hành.
Nhưng nêu lên một cái nhìn khái quát về cộng đoàn dân Chúa để có thêm hướng suy
tư cho cộng đồng dân Chúa.
2. Điều gì làm nên căn tính một con người? căn tính của cộng đoàn?
Căn tính là điều làm cho một cá
nhân mang tính đặc thù. Căn tính một người được hình thành ngoài nguồn gốc di
truyền còn có truyền thống gia đình, văn hóa địa phương và môi trường xã hội.
Như vậy căn tính con người được tổng hợp từ nhiều nguồn và tiến triển không
ngừng trong suốt cuộc đời. Cuộc sống, ít nhiều văn minh tiến bộ,tạo thành bối
cảnh cho con người có cùng lúc nhiều căn tính khác nhau như : căn tính của
người làm cha, mẹ trong gia đình, căn tính đặc thù của làng xóm, địa phương,
căn tính của người công giáo.
Căn tính một cộng đoàn cũng mang
tính chất phức hợp như căn tính cá nhân. Căn tính cộng đoàn giúp các thành viên
hoà nhập trong môi trường của cộng đoàn, cảm thấy mình gắn bó với cộng đoàn,
mỗi người một cách thức khác nhau, nhưng đều có cảm nhận mình thuộc về cộng
đoàn. Chính sự thống nhất, hòa hợp đó tạo nên căn tính cộng đoàn[2]. Và cũng
như căn tính cá nhân, căn tính cộng đoàn luôn ở số nhiều, tức là ngay trong một
thánh phần của cộng đoàn cũng mang nhiều căn tính tập thể khác nhau. Căn tính
cộng đoàn hình thành qua kinh nghiệm thể hiện sự khác biệt với các cá nhân hay nhóm
khác. Khi căn tính cộng đoàn trở thành đống nhất, tất cả sự khác biệt bên trong
cộng đoàn bị xóa bỏ, những cảm nhận đặc thù - để nhận diện mình thuộc về cộng
đoàn - trở thành ưu tiên một. Đây là yếu tố quan trọng cần ghi nhận khi những
căn tính cộng đoàn được sử dụng như công cụ tuyên truyền cho cộng đoàn trong
môi trường toàn cầu hóa hiện nay.
Như vậy căn tính cộng đoàn mang
tính chất, phần nào đó, mỏng dòn, ít nhiều ổn định, được các thành viên ý thức
ít nhiều. Các sắc thái này hiện diện khi căn tính cộng đoàn gặp khủng hoảng,
đang đi tìm hướng đi mới, đang gặp nhiều sợ hãi, bị lạm dụng hay mang nhiều
tham vọng để biện minh cho hiện tại và mang niềm hy vọng cho tương lai[3].
Căn tính văn hóa và tôn giáo
thường gắn kết với căn tính cộng đoàn, qua những tập tục, thói quen, nghi lễ.
Luật lệ, quy định thường gắn liền với văn hóa, tạo thành cơ cấu xã hội, làm các
thành viên nhận biết nhau và gắn bó với một cộng đoàn đặc thù[4].
Khi một cộng đoàn bị phân tán, khi
môi trường có nhiều văn hóa hội tụ, như trường hợp thành thị hóa, con người sẽ
phải đối diện với một thực tại của hai cơ chế xã hội đối lập. Nói cách khác,
khi có sự chung sống của nhiều nền văn hóa, nhiều sắc tộc, nhiều căn tính cộng
đoàn, sẽ phát sinh những kinh nghiệm sống căn tính đặc thù của một cộng đoàn.
Các thành viên thể hiện những thói quen, nghi thức, nguyên tắc thường xuyên
hơn, để tăng cường hoặc củng cố cảm nhận gắn bó, thuộc về cộng đoàn rõ nét hơn.
Như vậy một nền văn hóa có thể là căn tính cộng đoàn của nhiều sắc tộc, hay
ngược lại, một sắc tộc có thể mang nhiều văn hóa, nhiều truyền thống khác nhau.
Những khái niệm về căn tính cá
nhân hay cộng đoàn trên đây dựa trên hai điểm chính:
1) Nguồn xây dựng nội tại, chủ quan
của các thành viên trong cộng đoàn.
2)
Nguồn xây
dựng ngoại tại, theo mối tương quan của môi trường.văn hóa, chính trị, xã hội.
Cả hai điểm bổ sung, đan vào nhau
để xây dựng nên căn tính của một người, một cộng đoàn. Quá trình này diễn biến
liên tục qua những trải nghiệm, giao tiếp, va chạm với bối cảnh thực tiễn.
3. Thực tại nào cho căn tính của cộng đoàn kitô hữu Việt Nam?
HĐGMVN triệu tập ĐHDC, thao thức
mong thực hiện một cuộc đổi mới Giáo Hội tại Việt Nam. Đổi mới ai? Đổi mới thế
nào mà vẫn ý thức được căn tính của cộng đồng Giáo Hội đức Kitô?
1. Hỗ trợ sự phát triển đa dạng của các cộng đoàn địa phương.
Giáo Hội Việt Nam bao gồm nhiều
cộng đoàn mang sắc thái dân tộc[5], văn hóa địa phương khác biệt. Khi nhu cầu
đổi mới của Giáo Hội trở nên bức thiết, là đã nảy sinh những rạn nứt, thất bại
trong sinh hoạt của nhiều cộng đoàn dân Chúa tại địa phương. Mục vụ phát huy,
hội nhập văn hóa, xây dựng căn tính cho cộng đoàn địa phương[6] cần chính nỗ
lực của mỗi tín hữu tại cộng đoàn địa phương đó. Giáo lý truyền thống tạo nên
căn tính bền vững cho cộng đoàn giáo dân từ bao đời, trong xã hội đang bùng nổ
sự phát triển dân số và kinh tế này, cần nhiều nỗ lực đổi mới xây dựng căn tính
cho cộng đoàn Kitô giáo mình. Nói tới xây dựng căn tính là nói tới những yếu tố
gây khác biệt, tạo khoảng phân cách giữa tín hữu và người ngoài. Môi trường đa
văn hóa, nhiều sắc tộc, sẽ mang nhiều sắc thái khác nhau hơn.
Sự phát triển của Internet làm
phát sinh một cộng đồng mới mang tên gọi là “dân cư trên mạng”. Cộng đoàn đó
ngày càng lớn mạnh, mang tầm vóc quốc tế. Giáo Hội tại nhiều quốc gia đã đưa ra
những phương thế truyền giáo trên mạng. Một dạng “cộng đoàn ảo” không ranh
giới, nhưng xây dựng một căn tính riêng, ngày càng có ảnh hưởng mạnh lên hệ
thống xã hội hiện hành. Giáo Hội Việt Nam chưa có tiếng nói chính thức, để đối
thoại và cùng nhau xây dựng một căn tính cho cộng đoàn trên mạng này.
2. Duy trì sự hiệp thông trong Giáo Hội địa phương[7].
Để khuyến khích những sáng kiến
canh tân sinh hoạt của các cộng đoàn, Giáo Hội địa phương cần lắng nghe, hỗ trợ
về nhân lực, cung cấp những tài liệu, phương tiện, tài chính cần thiết.
Những sinh hoạt đa dạng của các
cộng đoàn, với tính đặc thù chuyên biệt cao, dễ tạo nên sự đồng cảm, mối liên
kết mật thiết hơn giữa các thành viên trong cộng đoàn đó, nhưng cũng có nguy cơ
phân tán Giáo Hội địa phương thành những mảng căn tính cộng đoàn cách biệt,
nhiều khi trở thành xung khắc lẫn nhau. Khi đó, có những thành viên của Giáo
Hội địa phương phải đối diện với nguy cơ bị loại trừ, tức là có những lúc mất
đi cảm nhận mình đang thuộc về, đang ở trong cộng đoàn: họ như người khách lạ,
người ngoại cuộc trong Giáo Hội địa phương, nơi mà chính họ đã và đang góp phần
xây dựng, duy trì. Hiện tượng đó thường gặp trong môi trường đa tôn giáo, gây
nên xung đột và tiêu diệt lẫn nhau. Xung đột giữa Palestine và Israel là một ví
dụ điển hình[8]. Với khuynh hướng cá nhân hoá, phát triển căn tính đặc thù của
nhiều cộng đoàn trong bối cảnh xã hội phức tạp hiện nay, tình trạng căng thẳng,
xung đột giữa hai hay nhiều cộng đoàn đặc thù, hoặc giữa các cộng đoàn địa
phương với Giáo Hội địa phương là điều dễ xảy ra.
3. Khi nào căn tính cộng đoàn địa phương cần đổi mới ?
Một cộng đoàn trên đà suy thoái,
cần đổi mới, có thể nhìn thấy qua 4 dấu hiệu:
1. Cộng đoàn cơ sở/địa phương suy
yếu, không phát triền.
2.
Các chủ
chăn, trưởng cộng đoàn chia rẽ - bất đồng (chia rẽ nội bộ)
3.
Mục
tiêu/sứ vụ mù mờ.
4.
Cơ cấu
không thích ứng với môi trường sống, với sự thay đổi của xã hội hiện hành.
Khi đó thành viên thấy mình lạc lõng, xa lạ dần với chính cộng đoàn cố hữu của mình (1). Căn tính của cộng đoàn địa phương cần thay đổi. Sự canh tân hữu hiệu khi được thực hiện cùng lúc trên ba bình diện: cơ cấu tổ chức (4); sứ vụ, mục đích sống của mỗi thành viên (3); và tăng cường sự hiệp thông, đoàn kết nội bộ, nhất là những người lãnh đạo.
Giáo Hội địa phương, hơn lúc nào
hết, vừa phát huy nỗ lực canh tân, tìm cách thu nhận những điểm tích cực của
văn hóa địa phương, vừa phải bảo đảm được các tính chất của Giáo Hội là duy
nhất, thánh thiện, Công Giáo và tông truyền. Những phương cách cấm đoán, ra
lệnh hay ban đặc ơn từ trên đưa xuống - tức cơ cấu xin cho – mà một thời góp
phần tích cực vào công cuộc xây dựng Hội Thánh, nay có nguy cơ tạo nên những hố
sâu ngăn cách, thậm chí bóp nghẹt sức sống của các cộng đoàn địa phương .
4. Vài đề nghị thêm cho hướng đi mục vụ.
Qua vài suy tư ngắn gọn trên, tôi
xin đề nghị :
1.Triển khai Mục Vụ Tiếp Đón[9]
2. Phòng tiếp đón và hướng dẫn, là
khâu rất quan trọng, không thể thiếu trong các công ty, cơ cấu hành chính hiện
nay. Văn phòng tiếp đón – thông tin tại các cộng đoàn địa phương – hội đoàn,
giáo xứ và giáo phận – có thể kiêm luôn công việc của văn phòng thường trực. Đó
sẽ là nơi tạo mối dây liên lạc, cập nhật thông tin, làm cầu nối quan trọng
trong cộng đoàn và với các cộng đoàn khác.
3. Các phòng tiếp đón - thường
trực trong giáo phận cần liên lạc, phối hợp thành một Hệ thống tiếp tân- ban
thường trực. Các thông tin, giấy tờ trong Giáo Hội (chứng nhận bí tích, giấy
chuẩn...) lúc đó có thể gởi qua đường bưu điện, liên hệ trao đổi qua email. Như
vậy vừa trao đổi, gởi được những giấy tờ cần giữ kín (như giấy điều tra hôn
phối), vừa giúp giáo dân đỡ đi lại, phải đến gặp trực tiếp.
·
Hệ Thống
Thông Tin Vĩ Mô.
·
Các trung
tâm hành hương, giáo xứ lớn, văn phòng thường trực Tòa Giám Mục, các ủy ban của
HĐGM ... cần mở trang Website cập nhật hóa thường xuyên với email liên lạc.
·
Lập ban
đại diện thường trực tiếp xúc, trao đổi với dân cư trên mạng. Việc phối hợp với
các ủy ban chuyên ngành là cần thiết. Ban làm việc trực tuyến không thể làm
việc khi chưa thực hiện hệ thống văn phòng thường trực chuyên ngành.
4. Các ban thường trực của ủy ban
chuyên ngành có thể - và có thẩm quyền - hướng dẫn, cung cấp những tài liệu
chính thức của Giáo Hội, giải đáp thắc mắc cho đối tượng cần thiết (như văn
phòng TGM, thần học gia...)
1. Đào tạo nhân sự
2. Thành lập Ban phụ trách ơn gọi
cấp vĩ mô.
Các vị phụ trách ơn gọi nên có
những buổi họp định kỳ - triều cũng như dòng - để bàn về đường hướng đào tạo và
yêu cầu ban giảng huấn các chủng viện, học viện đề ra hướng đào tạo tương ứng,
phù hợp với nhu cầu chung của HĐGM, các giáo phận và/hay dòng tu.
3. Học và làm việc với thông tin
Internet là công cụ cần đưa vào chương trình đào tạo các linh mục, tu sĩ, giáo
dân làm công tác mục vụ.
4. Môn mục vụ giáo lý và xã
hội[10], là công cụ tìm hiểu và hỗ trợ giải quyết những vấn đề mục vụ thiết
thực trong xã hội, cần đưa vào chương trình đào tạo tại chủng việc và chương
trình nghiên cứu chuyên sâu.
5. Mở thêm các điểm tĩnh tâm – cho
giáo dân và tu sĩ - với các chuyên gia hướng dẫn theo chuyên đề. Các điểm hành
hương có lẽ chưa chú trọng nhiều tới vấn đề này. Đó là nơi đào tạo tâm linh
ngày càng bức thiết trong xã hội đa chiều hôm nay.
5. Kết:
Sự thay đổi nhanh chóng của thế
giới đa chiều hôm nay thách thức tất cả chúng ta nhận thức rõ hơn căn tính kitô
hữu Việt Nam và bản sắc thực của văn hóa dân tộc trong Tin Mừng. Nhu cầu canh
tân Giáo Hội cần thiết để sứ điệp Tin Mừng không bị tụt hậu hay mất hút trong
những trào lưu văn hóa xã hội, lu mờ vì thông tin Internet, đang dồn dập đến
cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước.
Mặt khác Giáo Hội của đức Kitô hôm
qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một. Điều nào cần đổi mới, điều nào phải duy
trì? Đã đến lúc các chuyên gia cần ngồi lại, đã đến lúc HĐGM cần không thể làm
việc rời rạc như những tổ chức, ủy ban nằm cạnh nhau, nhưng liên kết thành hệ thống.
Đã đến lúc Giáo Hội cần có những chương trình dài hạn, những nghiên cứu chuyên
sâu. Và như vậy Giáo Hội Việt Nam sẽ không ngỡ ngàng phản ứng quá trễ như việc
từ chức của đức TGM Warsovie của Giáo Hội Ba Lan , như sự kiện ấu dâm tại Bỉ
vừa qua.
Ước mong cho đại hội dân Chúa sẽ
mở ra một hướng đi mới, cho Giáo Hội Việt Nam can đảm đón nhận luồng gió mới.
Và để kết thúc, xin mượn lời của đức Giáo hoàng Bênêđictô: Tôi biết là cơ cấu
Giáo Hội sẽ phải đổi mới. Nhưng đổi mới thế nào thì tôi không biết!
Lm Fr. Phạm Ngọc Quang
[1] Xem “Tài liệu làm việc cho Đại
Hội Dân Chúa” §1
[2] Identité
collective
[3] Phỏng
theo Nifle Roger, Identité, culture et développement, des communautés
territoriales, “Le Journal Permanent de L'Humanisme Méthodologique”, mai 1998,
lên Internet T.2 26/07/2004:
http://journal.coherences.com/article.php3?id_article=138
[4] Về vấn đề
này, Nhà Nước thường xem tôn giáo là một biểu hiện của văn hóa dân tộc, lễ nghi
tôn giáo là một lễ hội văn hóa, nên tôn giáo được công nhận như là một nhu cầu
tâm linh “không thể tách rời” của người dân.
[5] Nhà Nước
tuyên bố Việt Nam là nước đa sắc tộc - 54 dân tộc – và muốn phát huy các nền
văn hóa sắc tộc bản địa.
[6] Cộng đoàn
giáo dân địa phương được hiểu như là một giáo xứ, một vùng văn hóa đặc thù, một
cộng đoàn sắc tộc.
[7] Giáo Hội
địa phương như là một thành phần của Giáo Hội hoàn vũ (Église particulière
comme une portion de l’Église universelle): tức là tổ chức Giáo Hội tù cấp giáo
phận trở lên.
[8] Xung đột
giữa 2 nền văn hóa tôn giáo độc tôn đó - Hồi Giáo và Do Thái giáo - được gọi là
cú sốc văn hóa (choc de civilisation)
[9] Nói cho
đúng là: sách lược tiếp đón (Stratégie d’accueil)
[10] Gọi
chung là mục vụ giáo lý: Pastorale catéchétique, là môn mới lạ đối với các
chủng viện. Nhưng khi làm việc, các linh mục thường phải giải quyết những vấn
nạn này nhiều hơn là vấn đề thần học kinh viện. Trong tài liệu làm việc ĐHDC
ghi là “học viện giáo lý” dễ hiểu lầm là môn sư phạm giáo lý.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét