DƯỚI ÁNH SÁNG GIÁO HỘI HỌC
Lm Nguyễn văn Am, SDB.
Chúng
ta đã quá quen với sứ điệp hoán cải. Mọi người đều phải hoán cải. Thế nhưng
hoán cải không chỉ là một thái độ đối với Chúa. Theo tôi, đó là một thái độ chi
phối toàn diện con người, từ lời nói, tư tưởng đến hành động. Nếu thế, hẳn
nhiên, ta cũng có thể nói đến một sự hoán cải theo chiều kích giáo hội. Có lẽ
hơn ai hết, người linh mục cần phải hoán cải thật
sự trong việc "sống giáo hội một cách mới" (A new way of being Church), theo ngôn ngữ của FABC.
sự trong việc "sống giáo hội một cách mới" (A new way of being Church), theo ngôn ngữ của FABC.
Trước
bổn phận người linh mục phải tự đào luyện chính mình dựa trên cuộc sống hằng
ngày, như Đức Gioan Phaolô II nêu lên, cũng như dưới sức thúc đẩy của năm đức
tin và kỷ niệm 50 năm công đồng Vatican II, tôi xin chia sẻ một vài ý nghĩa của
sự hoán cải được hiểu trong ánh sáng của mầu nhiệm Giáo hội, trước hiện trạng
xã hội, văn hóa, chính trị và tôn giáo của đất nước được Đại hội dân Chúa 2010
nêu lên.
Để
làm điều này, tôi muốn lắng nghe tiếng chuông cấp cứu từ một vị Thánh, sau đó
tôi duyệt lại chặng đường hiểu về giáo hội mà cách này cách khác được nhiều người
bộc lộ cũng như lối đường mục vụ để nhận ra được tâm tư của Vatican II như thế
nào
I. TIẾNG CẢNH BÁO TỪ MỘT
VỊ THÁNH ĐÃ TỪNG BỊ LIỆT VÀO SỔ ĐEN CỦA GIÁO HỘI
Antonio
Rosmini đã viết "Năm vết thương của
Giáo hội". Cuốn sách giống như một cơn địa chấn. Dù được Đức Piô IX ủng
hộ, cuốn sách cũng mau chóng bị liệt vào hàng sách cấm đối với giáo triều. Khi
nhận được quyết định văn thư Tòa thánh về cuốn sách, Rosmini hoàn toàn vâng phục.
Ngài nói: “Tôi sẽ giữ kín chuyện các
phiên họp của thánh bộ và tôi sẽ không bao giờ kể ra những lý do kết án. Tôi
hoàn toàn tuân phục… Sit nomen Domini benedictum”. Ngài viết trong lá thư
bày tỏ sự tuân phục: “Như một người con
nhiệt tâm và vâng phục của Tông Tòa mà qua ơn sủng của Thiên Chúa con luôn ấp ủ
trong tâm hồn và công khai tuyên tín, con tuyên bố tuân phục lệnh cấm cuốn sách
này cách tuyệt đối, đơn sơ; và bao nhiêu có
thể, con xin quý cha thông tin lại cho Đức Thánh Cha và thánh bộ”.
Thái độ ấy còn là một sứ điệp mạnh mẽ hơn cả chính tác phẩm. Đúng là có những
điều khó hiểu và nghịch lý: người con bị các anh em của mình bách hại và làm khổ.
Thế nhưng, niềm khao khát hiệp thông với Giáo hội đã làm cho người con đó một
lòng với người mẹ của mình trong vâng phục và kiên trì chờ đợi lúc nào và cách
nào Thiên Chúa muốn canh tân giáo hội. Và Thiên Chúa không bao giờ để cho kẻ hy
vọng vào Ngài phải tủi hổ. Ngài thưởng công kẻ khiêm nhường đúng lúc. Trước
Vatican II, cuốn sách đã được lấy ra khỏi hàng sách cấm và được ca tụng là
"cuốn sách có tính ngôn sứ" theo Đức Phaolô VI. Không chỉ thế.
Vatican II muốn phần nào đảm nhận suy tư thật nghiêm chỉnh về những vết thương
đó.
Rosmini
nêu ra năm vết thương của
giáo hội; ngài nêu ra những vấn đề rất nóng bỏng phản ánh Giáo hội trong
thời của ngài. Vết thương thứ nhất là hố ngăn cách giữa giáo dân và giáo sĩ
trong việc cử hành phụng thờ chung; vết thương thứ hai là sự đào tạo yếu kém của
hàng giáo sĩ; vết thương thứ ba là sự chia rẽ giữa các giám mục; vết thương thứ
tư là việc bổ nhiệm giám mục nằm trong tay chính quyền dân sự; vết thương thứ
năm là sự hạn chế việc sử dụng tài sản của giáo hội.
Vatican
II cho thấy rằng công việc chữa lành chưa kết thúc. Trước ảnh hưởng của chủ
nghĩa duy tục và vô thần, các thế lực chính trị cũng muốn thao túng Giáo hội.
Đang khi đó, không hiếm khi người linh mục chúng ta trình bày một diện mạo linh
mục xa cách hẳn với anh chị em giáo dân hoặc đôi khi mối tương quan của chúng
ta chỉ đóng khung lại trên một vài người hay gia đình; người nghèo và giới bình
dân và nhất là giới trẻ vẫn ở xa với chúng ta lắm, như Đức Gioan Phaolô II đã từng
lưu ý. Rồi bỗng chúng ta như bị hụt hẫng khi cảm nghiệm rằng lối đặt vấn đề của
người thời đại quả khác xa với những gì chúng ta nhận được trong chủng viện.
Chúng ta như thấy mình "quá 'đát'" rồi. Những gì chúng ta quan tâm, đại
đa số nhất là giới trẻ lại thấy dửng dưng. Cũng có khi những bài giảng của
chúng ta chỉ được coi là hay và văn chương bóng bảy, nhưng lại không phải như một đà lực thôi thúc người
nghe tới một chân trời mới, bởi lẽ dân chúng không cảm nhận được chiều sâu của
sự hiệp thông với Thiên Chúa. Chính Đại hội dân Chúa cũng chân thành nói lên một
số linh mục thật sự thấp kém về kinh thánh, về thần học, về luân lý, về trình
bày Lời Chúa, và ngay cả về đời sống thiêng liêng và tu đức như một linh mục?
Chúng ta ưu tư khi thấy ít những suy tư sáng tạo giữa các thế hệ trẻ. Chúng ta
vẫn đang loay hoay tìm ra những cách thức giúp anh chị em chúng ta đối diện với
những thách thức mới của thời đại công nghệ cao với những biến tấu không lường
được về luân lý và đức tin. Chúng ta hẳn cũng kinh nghiệm có một quãng cách nào
đó, nếu không nói là sự chia rẽ, giữa linh mục của giáo hội, giữa thế hệ đàn
anh và đàn em. Chúng ta không phủ nhận tình yêu mãnh liệt, đầy hy sinh và trách
của các vị chủ chăn của Giáo hội tại Việt nam dành cho Giáo hội. Nhưng điều đó
không đủ để che dấu đi sự rạn nứt nội bộ vốn nghịch lại điều Đức Giêsu đã nói:
"Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em
thương yêu nhau." Theo ánh sáng đó, thật không đúng sao khi Vatican II đã
tuyên bố các Kitô hữu chúng ta chịu trách nhiệm không nhỏ về vô thần, vì lẽ
chúng ta "đã xao lãng việc giáo dục đức tin, hoặc vì trình bày sai lạc về
giáo lý, hoặc do những thiếu sót của đời sống tôn giáo, luân lý và xã hội".[1]
Tiếng
cảnh báo này của Rosmini thôi thúc chúng ta hoán cải không chỉ về với Thiên
Chúa, mà dưới một góc cạnh, chúng ta cũng phải trở về với chính ý nghĩa sâu xa
"LÀ GIÁO HỘI" mà mỗi người tín hữu đã lãnh nhận qua bí tích Thánh Tẩy.
Chắc chắn hoán cải tiên vàn và tiên quyết là "khởi sự lại từ Đức
Kitô", nhưng ta cũng có thể nói hoán cải cũng là khởi sự lại với Giáo hội,
như thực tại sống động được phát sinh từ tình yêu khôn tả của Đức Kitô, từ sức
sinh động mãnh liệt của Thần khí lễ Ngũ Tuần.[2]
I.
NỖI KHÁT KHAO MỘT MÔ HÌNH GIÁO HỘI ĐÍCH THỰC
Vậy
đâu là sự hoán cải được chờ mong theo ánh sáng của giáo hội học? Trước khi mang
lại câu trả lời gãy gọn, tôi thiết nghĩ duyệt lại những phương cách tiếp cận mục
vụ, và từ đó, ta thấy nổi lên một diện mạo về giáo hội. Châm ngôn kinh viện
"hữu thể ra sao hành động theo đó" quả là đúng. Tuy nhiên, ta cũng có
thể bổ sung bằng một góc cạnh khác: hành động ra sao, cho thấy hữu thể như vậy.
Chính Chúa Giêsu đã chẳng từng nói "xem quả thì biết cây" hay sao?
Hai nguyên lý đó bổ sung nhau thật rõ ràng. Quả thế, nghĩ về giáo hội ra sao sẽ kéo theo một cách
thức mục vụ tương xứng và ngược lại. Nếu chúng ta nghĩ giáo hội tiên
vàn là phẩm trật, chúng ta sẽ mục vụ theo cách đó; nếu chúng ta nghĩ giáo hội
thật sự là gia đình của Thiên Chúa, chúng ta sẽ nỗ lực trình bày như thế trong
mục vụ. Nếu chúng ta nghĩ giáo hội phải xa lánh thế gian như thể sự dữ và tội lỗi,
chúng ta sẽ có thái độ mục vụ tương xứng. Nếu chúng ta nghĩ giáo hội như kết quả
đang tăng trưởng của Ngôi Lời Nhập Thể, chúng ta sẽ trình bày một giáo hội của
Chúa Kitô nhập thể giữa nhân loại trong lịch sử. Châm ngôn của Socrates vẫn còn
đấy giá trị của nó: "nghĩ đúng, làm đúng".
Lịch
sử Giáo hội đã cho thấy có một Giáo hội
chu cấp mọi sự. (H.1)
Giáo hội ban phát mọi sự, thậm chí cả đến những vật
chất. Chủ nghĩa giáo sĩ trị không bộc lộ tầm nhìn này sao? Yves Congar đã không
nói đến vai trò thụ động của giáo dân như người chỉ ngồi nghe và không được lên
tiếng sao? Sẽ chẳng bao giờ có một Giáo hội không phẩm trật. Điều đó Chúa Giêsu
không bao giờ muốn. Thế nhưng, chính Chúa Giêsu cũng chẳng muốn có một chủ
nghĩa giáo sĩ. Đề cao quá đáng vai trò của phẩm trật đã tạo nên một tầm nhìn về
Giáo hội như một cơ chế hơn là một mầu nhiệm. Ta không thường nghe rằng linh mục
như người ban phát mọi ơn lành của Chúa trên đoàn chiên bơ vơ lạc lõng hay sao?
Mô hình Giáo hội ban phát |
Có
một mô hình khác về giáo hội. Giáo hội cũng đã có sự đóng góp của một số người
khác mà chúng ta gọi là hội đồng giáo xứ
(H.2)
Những người được gọi là cánh tay phải tay trái của cha xứ, của linh mục
đã hoạt động giữa anh chị em của mình. Chính cha xứ giao việc cho họ để
chu toàn. Giống như thể họ nhận lãnh sứ mệnh từ cha xứ để lo cho mọi người tín
hữu. Hiển nhiên, theo đồ họa đã có thay đổi nào đó trong mô hình này so với mô hình trên.
Nhưng rốt cục vẫn là một thành phần ban phát hơn là một sự cộng tác bổ sung như
trong một thân mình.
Mô hình Giáo Hội HĐGX |
Lịch sử cho
chúng ta một mô hình thứ ba. Nhiều anh chị em bắt đầu tự hỏi "Giáo hội là
gì? Tôi có vai trò nào trong giáo hội?" Đó là một giáo hội đang thức tỉnh.
Mô hình này, đối với một số người, có
thể được coi như một thái độ chống đối. Các tín hữu đặt vấn đề. Dường như họ 'khó
bảo' hơn, không còn thuần thục nữa. Tuy nhiên, thay vì được coi là một sự gây
khó dễ cho phẩm trật, tôi thấy đó là một dấu hiệu của lớn lên, của tăng trưởng.
Khi một thiếu niên lớn lên, dấu hiệu của em là đặt câu hỏi về chính mình. Đứa
trẻ bất thường (thiểu não) có lẽ không đặt câu hỏi ấy; nó chỉ biết ăn và ăn
những đồ ăn mà người ta mang đến cho nó. Ở đây, trên phương diện đức tin
và thiêng liêng, Thánh Thần tác động, thôi thúc các tín hữu, thức tỉnh lương
tâm Kitô hữu của họ để họ thật sự nên những người đối tác trong cuộc đối thoại
với Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa muốn như thế. Bằng cách đó, đức tin mang
tính cách cá nhân lớn lên dần cùng với cảm thức về Giáo hội. Cảm thức đức tin
(sensus fidei), cảm thức của người tín hữu (sensus fidelium) đi liền với cảm
nhận với Giáo hội (sentire cum ecclesiae).
Mô hình Giáo Hội đang thức tỉnh |
Mô hình Giáo Hội các hội đoàn |
Mô hình giáo hội được đề xướng cho
chúng ta ngày nay có tên là hiệp thông
giữa các cộng đoàn, các nhóm.
Khi Vatican II làm nổi bật Giáo hội như Dân
Thiên Chúa, Vatican II đã muốn tìm lại một điều cốt yếu trong Giáo hội. LG 9
viết:
Thiên Chúa quy tụ tất cả những ai trọn niềm tin kính tìm đến Đức Kitô là
tác giả của ơn cứu rỗi và là nguồn mạch sự hợp nhất và bình an, và thiết lập họ
thành Giáo hội để trở thành bí tích hữu hình của sự hiệp nhất mang lại ơn cứu
rỗi cho mọi người và từng người.
Trong đoạn văn ngắn trên, chúng ta
thấy ý nghĩa hiệp nhất, hiệp thông, gắn bó chủ trị. Ơn cứu rỗi cho con người
chính là sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và với nhau.[3] Đó chính là điểm từ đó Giáo hội xuất
phát và cũng là điểm tới của Giáo hội.
"Giáo hội phổ quát xuất hiện như một dân tộc được hợp nhất khởi
nguồn từ sự hợp nhất của Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần".[4]
Và:
"Cùng đích của họ [Giáo hội] là Nước Thiên Chúa đã được chính Thiên
Chúa khởi sự trên trần thế, và phải được trải rộng hơn nữa cho tới khi được nên
hoàn tất vào lúc tận cùng thời gian... được chung hưởng tự do và vinh
quang".[5] Chỗ khác, Vatican II viết: "Giáo hội là nơi mà trong Đức Kitô tất
cả chúng ta được mời gọi đến [...] Giáo hội ấy chỉ thành toàn trong vinhquang
trên trời [...] và cũng là lúc cùng với nhân loại, toàn thể vũ trụ vì được liên
kết với con người mà đạt được cùng đích của mình, sẽ được tái tạo toàn vẹn
trong Đức Kitô".[6]
Chính Thượng hội Đồng Giám mục đặc
biệt 1985 đã minh định rằng sự hiệp thông là điều then chốt của Giáo hội học
tại Vatican II. Cả FABC luôn đề ra tầm nhìn về hiệp thông dưới ánh sáng mục vụ
như sự hiện thực hoán cải và canh tân của Giáo hội tại Á châu. Đại hội Dân Chúa
tại Việt nam năm 2010 đã đặt sự hiệp thông phải thành chương trình để sống và
thực hiện trong mọi cấp độ. Nếu cảm thức đức tin của tín hữu là không sai lầm
như Lumen Gentium minh định, thì rõ ràng ta có thể cảm nhận sự đảm bảo thiêng
liêng của phong trào hoán cải này nơi Giáo hội. Thật vậy, Giáo hội không thể
được định nghĩa bằng các công việc mình làm, nhưng nhất thiết phải khám phá xem
mình là ai. Nguyên lý "agere
sequitur esse" (hành động đi theo hữu thể) phải ưu thắng trong tất cả
mọi hoạt động của giáo hội. Giáo hội không phải là một tổ chức phi chính phủ
(NGO) để phục vụ những kẻ nghèo. Giáo hội tiên vàn cống hiến cho thế giới sự
đóng góp độc đáo của mình chính là cho thấy
điều Thiên Chúa muốn nơi thế giới nhân loại hôm nay.
Mô hình Giáo Hội hiệp thông |
Theo ánh sáng này, sự hoán cải mà
Thiên Chúa đang cần nơi Giáo hội liên quan đến "sự hiệp thông giữa những
cộng đoàn", "cộng đoàn của các cộng đoàn". Các cộng đoàn mang
lấy nơi mình tất cả những gì là Giáo hội để hiện thực bản tính đó trong mọi
chiều kích cuộc sống. Các cộng đoàn thực sự bổ sung nhau bằng chia sẻ lời Chúa,
sứ vụ và đời sống. Các nhóm cảm nhận hiệp nhất trong cử hành các bí tích cũng như
cùng chung một mục tiêu tông đồ trong việc sống đức ái linh hoạt, đến nỗi người
ở Phi châu có thể thấy mình liên đới như anh chị em với một người ở Á châu. Khi
đó, Giáo hội tỏ lộ là cộng đoàn của các cộng đoàn trong địa phương đặc thù. LG
13 viết: "Các giáo hội địa phương vẫn hiện diện cách chính thực trong tình
hiệp thông Giáo hội, vẫn có thể nắm giữ những truyền thống của riêng mình...
bảo toàn các dị biệt hợp pháp, đồng thời lưu tâm giữ gìn sao cho các dị biệt ấy
không làm phương hại, trái lại, còn phục vụ cho sự hiệp nhất". Thực vậy,
Giáo hội đâu phải một bài toán, một vấn đề, để ta giải quyết, cho bằng trước
tiên là một mầu nhiệm bao trùm đời sống ta, theo ngôn ngữ của G. Marcel. Giáo
hội như một bầu khí ân sủng trong đó chúng ta sống, hoạt động, hiện hữu và tăng
trưởng. Chính trong ý nghĩa này, ta hiểu được tại sao Thánh Thể chính là nguồn
mạch và chóp đỉnh của Giáo hội trong bản chất cũng như trong sứ mệnh chính.
Giáo hội là Giáo hội mang đặc tính Thánh Thể (Eucharistic Church).[7] Khi Vatican II băn khoăn, "Giáo
hội hỡi, hãy nói xem mình là ai?" Vatican II đã khuấy động nơi các tín
hữu, cá nhân cũng như tập thể, phải truy tìm sâu xa hơn đàng sau những gì mang
tính tổ chức. Và Vatican II đã tìm được thực tại sâu thẳm của chính giáo hội,
khuôn rập theo chính Thiên Chúa có tên là GIA ĐÌNH, CỘNG ĐOÀN: Giáo hội là sự
hiệp thông. Như thế, ta có thể nói, xuất
phát lại từ Giáo hội, dưới ánh sáng được chiếu tỏa ở trên, nay biến thành xuất
phát lại từ sự hiệp thông mà Thiên Chúa khơi nguồn và đặt định cho Giáo hội.
Nếu vậy, cách thức mới để sống và là giáo hội hôm nay gắn liền với
sự hiệp thông. Nói cụ thể, sự hoán
cải bắt đầu từ mỗi người tín hữu như đền thờ của Thánh Thần hẳn nhiên liên quan
đến sự hiệp thông và tham gia. Huấn thị Xuất
phát lại từ Đức Kitô mang lại chiều sâu đích thực của điều này coi đó là
"một nhiệm vụ cần đến những con người thiêng liêng được Thiên chúa nắn đúc
bên trong bằng sự hiệp thông tràn đầy tình yêu
Ơn Thánh Thần luôn vì lợi ích và sự thiện hảo chung của toàn Thân mình.
Đó là nguyên lý không thể sai lầm mà thánh Phaolô đã khẳng quyết. Hơn ai hết,
linh mục chúng ta phải xác tín rằng GH là một sự hiệp thông-gia đình hơn là một thể chế, hay cơ cấu nặng nề. Chính
vì thế, "trừ phi chúng ta đi theo con đường thiêng liêng này, những cơ cấu
bên ngoài của sự hiệp thông sẽ sinh rất ít kết quả".[8]
I. NỖI KHÁT KHAO ĐƯỢC TỎ LỘ TRONG MÔ HÌNH MỤC VỤ TẠI Á CHÂU
Xuất phát lại từ sự hiệp thông được
Thiên Chúa mong đợi và hoàn thành mang đến cho Giáo hội một sự năng động đầy hy
vọng. Điều này Huấn thị Xuất phát lại từ
Đức Kitô viết như sau:
Xuất phát lại từ Đức Kitô có nghĩa là
nhìn nhận rằng tội lỗi vẫn hiện diện trong con tim và đời sống của mọi người
[...] những người thánh hiến nam nữ (các tín hữu) cũng đã chiêm ngưỡng khuôn
mặt đau khổ cả ở bên ngoài của Đức Kitô nơi người bệnh, kẻ tù đày, người nghèo
và người tội lỗi.[9]
Đoạn văn quá dễ hiểu đến nỗi ta dễ bỏ
quên những chữ "cả ở bên ngoài nữa".
Nói yêu mến người nghèo thì dễ, nhưng không dễ chút nào khi ta đối diện thực
với cái nghèo 'cả ở bên ngoài nữa', nào là tính khí, nào là khuôn mặt, nào là
văn hóa, và tất cả. Thật sự không dễ cho người linh mục ngồi xuống bên vệ
đường, hiểu cả theo nghĩa vật chất lẫn tinh thần, với người lao động và các trẻ
em đường phố đâu. "Đó là những tình trạng nghèo đói mới về phương diện vật
chất, luân lý và tinh thần được sản sinh bởi xã hội đương thời."[10] Chẳng lạ gì Mẹ Têrêsa thành Calcutta
trả lời cho một người giàu: "Dù ông trả cho tôi cả triệu đồng, tôi cũng
không làm thế đâu". Không dễ để một vị mục tử cử hành buổi lễ Thứ Năm Tuần
Thánh giữa những thiếu niên phạm pháp đâu! Vẫn có điều gì rất cách mạng, ngay
cả trước con mắt thế gian, mà sự hiệp thông giáo hội mở đường khai lối trong
mục vụ.
Tuy nhiên, chúng ta đừng ảo tưởng
chết người. Khi Vatican II đề xướng một đức tin mang tính phê phán trong xã hội
ngày nay thì điều ấy không muốn nói rằng Giáo hội ngày nay sống đức tin phong
phú hơn thời trước. Đúng hơn, điều ấy muốn giúp các tín hữu hôm nay của Đức
Kitô rũ bỏ đi một sai lầm là coi nhẹ những gì đã được xây dựng trước của những
người tiền bối, nhưng phải biết đánh giá thời buổi. Vatican II không bảo các
tín hữu hành sử như thể 'mọi sự bắt đầu với chúng ta và sẽ kết thúc với chúng
ta'. Nếu thế, dường như đức tin của các cộng đoàn tín hữu luôn phải xây dựng
lại từ đầu. Vatican II đã bắt đầu với sự đánh giá lại thế giới, với những mảng
sáng của ơn Thánh Thần và mảng tối của tội lỗi và ma quỷ gây nên. Đức tin hợp
thời, biết phê phán là đức tin có thể khám phá lại giá trị thần thiêng và nhân
bản trong dòng đời hôm nay.[11] Bằng không, rất có nguy cơ trình bày
một giáo hội giống như một chiếc máy bay trực thăng quạt tung bụi mịt mù bất kỳ
nơi nào mình đến rồi lẳng lặng bỏ đi để lại mọi sự trong hỗn độn, như một số
thần học gia Á châu đã từng so sánh.
Hoán cải theo ý nghĩa hiệp thông ở
trên mới khởi hứng cho một sự hoán cải trong mục vụ dưới ánh sáng của sự hiệp
thông Giáo hội. Với tư cách lãnh đạo và chủ chăn, có thể chúng ta đã từng quen
làm việc mà chẳng có chương trình hay kế hoạch. Hoán cải dưới khía cạnh giáo
hội buộc ta phải mở ra một kế hoạch mục vụ vốn được hiểu như nâng đỡ đức tin
của các tín hữu lớn lên qua các giai đoạn cho đến mức trưởng thành. Không chỉ
thế. Họ không mãi mãi chỉ là những kẻ hưởng nhận sự chăm sóc mục vụ. Trái lại,
các tín hữu dần dần cùng với các chủ chăn trở thành tác nhân tích cực cho sự
biến đổi môi trường nhân sinh. Theo ánh sáng trên, Liên hiệp các hội đồng giám
mục Á châu (FABC) giới thiệu cho chúng ta một phương pháp mục vụ năng động khởi
hứng từ Giáo hội như sự hiệp thông.
Khởi từ hiện trạng và hướng chiều của
mình, các giáo hội Á châu chắc chắn không nổi bật với đóng góp mang tính lý
thuyết. Giáo hội tại Á châu không có được một truyền thống thần học dưới diện
suy lý và phương pháp thần học hệ thống.[12] Nhưng các ngài hoàn toàn đặt suy tư
vào tình yêu mục tử của mình giữa những anh chị em nghèo khổ nhưng có một tâm
hồn giầu có và chân chất ngay cả giữa "những ưu tư và phiền muộn, lo lắng
và ưu sầu, hy vọng và niềm vui". Giáo hội tại Á châu muốn lấy những nỗi
niềm của dân chúng thành của mình, dưới sự thúc đẩy của Chúa Giêsu. Chan hòa
với dân chúng, đó không phải là hướng đi được Đại hội Dân Chúa 2010 đề ra sao?
Mà, chan hòa với dân chúng chính là con đường để nhận ra những dấu chỉ thời đại
qua đó Thiên Chúa đến thăm và giáo huấn chúng ta. Nơi đây, ta xác tín, chủ thể
chính là Thánh Thần sinh động giáo hội đi tìm điều Thần khí muốn nói cho giáo
hội xuyên qua các trạng huống nhân sinh; chan hòa với dân chúng cho phép chúng
ta nhìn ra Thánh Thần luôn hoạt động trong nơi những con người bình dân và
nghèo khổ, dưới mọi hình thức.
1. Chu
kỳ mục vụ (1986)
Đồ họa sau có thể nói cho chúng ta
nhiều điều:
Trong
Giáo hội, nhiều khi mục vụ được hiểu tiên quyết là các việc làm. Nhưng khi Đức
Gioan Phaolô II trình bày về tình yêu mục tử như cốt lõi và đích tới trong việc
huấn luyện chủng sinh, điều ấy bắt đầu thay đổi tầm nhìn về việc mục vụ. Quá
quen, khi nhận được một quyết định phải đi đâu, khi đứng trước một buổi lễ hay
một khởi đầu mùa phụng vụ, chúng ta thường tự hỏi "phải làm gì đây? Phải tổ
chức làm sao đây? Phải xây nhà giáo lý hay nhà thờ làm sao đây?", điều đó
không đúng ư? Chúng ta dễ trình bày hình ảnh vị linh mục như một người làm công
việc. Điều đó đúng; dĩ nhiên, chẳng ai chịu chức linh mục để ngồi chơi xơi nước.
Nhưng tuyệt đối không đủ. Còn một điều gì cơ bản hơn nhiều. Khoa mục vụ năng động
muốn giúp mọi người tín hữu thoát khỏi chủ nghĩa náo hoạt trong mục vụ, cũng
như thoát khỏi cơn chướng hay thay đổi. Chu kỳ mục vụ này cho phép toàn cộng
đoàn Giáo hội đem ra thực hành thái độ hoán cải tại địa phương được mô phỏng
theo khuôn mẫu Ngôi lời nhập thể. Mô hình ấy đã chiêm ngắm lối đường của
"Ngôi lời cắm lều giữa chúng ta" qua bốn giai đoạn: (1) phơi bày-chìm ngập, (2) phân tích xã hội, (3)
chiêm niệm hoặc suy tư thần học liên tục và (4) lập kế hoạch mục vụ với sự lượng
giá ngay thẳng.[13] Chu kỳ
mục vụ này cho phép ta dần dần vào sâu trong lòng dân chúng, giống như một người
bác sĩ đến sống tại vùng có bệnh để có thể hiểu và chuẩn đoán đúng căn bệnh,
trước khi lập phương án chữa trị. Sự hoán cải theo tin mừng trên bình diện giáo
hội hôm nay cho phép chúng ta trình bày, sống và là giáo hội một cách mới mẻ. Lối
mục vụ như thế cho phép ta trình bày được một giáo hội là dấu chỉ và người mang
tình yêu Chúa Giêsu cho gia đình nhân loại tại Á châu. Điều này được Van Beech
diễn đạt như sau: "Con người của Đức Giêsu Kitô sống động trong Thần khí
là nguồn mạch của kinh nghiệm-căn tính Kitô hữu cũng như kinh nghiệm Kitô hữu về
sự rộng mở trước thế giới".[14]
2. Mục vụ toàn diện:
ASIPA (Asian Integral Pastoral Approach)
Trong
chu kỳ mục vụ năng động trên, giáo hội tại Á châu nhận ra sự thúc bách của một
khoa mục vụ toàn diện. Nếu giáo hội là chia sẻ, thì giáo hội không thể không
chia sẻ những gì mình có được từ Thiên Chúa cho các bạn nghèo khổ của Đức Kitô
tại Á châu. Giáo hội không thể sống một cách trưởng giả giữa "thái bình
dương" nghèo khổ của Á châu. Giáo hội tại Á châu mong muốn tạo thành một cộng
đoàn hiệp thông và chia sẻ được làm nên bởi
giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ nhìn nhận và đón nhận nhau như anh chị em cho
cùng một sứ vụ yêu thương và phục vụ của giáo hội. Giáo hội tại Á châu không thể
không quan tâm đến hạnh phúc toàn diện của con người, vì biết rằng yếu tố trần
thế là một cấu tố của chính Tin mừng Đức Kitô mang lại. Aloysius Pieris cho thấy
Thiên Chúa thiết lập "Vương quốc của Thiên Chúa dành cho những người nghèo
của Thiên Chúa". Mục vụ ấy phải vượt thắng khuôn mẫu nhị nguyên. "Sứ
mệnh ngôn sứ loan báo lời đòi hỏi một linh đạo của "việc lắng nghe"
tiếng Thiên Chúa giữa hoạt động tông đồ, mà đó là ý nghĩa của sự "phân định"
vậy".[15]
Lối
tiếp cận mục vụ như thế không được đánh giá tùy vào công việc và sự thành công.
Trên hết, nó được đánh giá tùy theo mức độ tình yêu chăm sóc của Chúa Giêsu mục
tử nhân lành được sống nơi người môn đệ Đức Kitô dành cho những con người bé nhỏ.
Hiển nhiên điều này đòi hỏi một sự hoán cải để sống giáo hội theo một cách thức
hoàn toàn mới. Hoàn toàn mới đây liên hệ mật thiết với sự hiệp thông vậy.
IV. ĐỊNH HƯỚNG ĐƯỢC
VATICAN II PHÊ CHUẨN
Sâu
xa hơn những phương hướng mục vụ ấy, Vatican II đưa chúng ta vào tận lõi của cuộc
hoán cải. Vatican II mở ra lối mục vụ 'chan hòa với con người trong mọi trạng
huống của họ' khi đã chiêm ngắm, tìm tòi cái cốt lõi chi phối hành động của
mình. Khi đã để cho câu hỏi về chính mình vang lên mãi, trong suốt 3 năm trời,
Vatican II trả lời về bản thân mình bằng một tầm nhìn về hiệp thông trong chiều
kích sâu thẳm nhất.
Đồ
họa trên không chỉ trình bày tính duy nhất nội tại của các văn kiện được
Vatican II phê chuẩn. Đúng hơn, đồ họa ấy cho thấy cái ý thức sâu xa của
Vatican II: biết mình là ai? Sống nhờ điều gì? Sống cho mục đích nào? Và đi
đâu? Đồ họa ấy trả lời cho yêu cầu của Đức Phaolô VI: Hỡi Giáo hội, hãy nói xem
mình là ai? Như thế, dù các văn kiện của Vatican II đều qui về giáo hội, như
Karl Rahner và những thần học gia khác đã từng nhận định, các văn kiện ấy lại
được nhìn từ chính ánh mắt của Đức Giêsu. Các văn kiện ấy càng ngày càng dẫn
vào tận lõi tủy của giáo hội. Nơi đây, ta bắt gặp toàn bộ là hiệp thông. Giáo hội
xây trên Lời Thiên Chúa và Phụng vụ. Mà hai điều này chỉ nhằm tới sự kết hiệp
năng động với Thiên Chúa được sống và thể hiện trong sự hiệp thông với anh chị
em của mình, như các tín hữu và như những con người-hình ảnh Thiên Chúa. Vì vậy,
thật không sai khi nói sự hoán cải theo tin mừng dưới chiều kích giáo hội như
được Vatican II mong đợi là trở về lại với sự hiệp thông mà Thiên Chúa ban tặng
cho Giáo hội từ ban đầu. Nếu người linh mục không thể là kích thích tố cho sự
hiệp thông giữa những khác biệt của các chi thể, người linh mục không thể làm
sáng lên khoa mục vụ của lòng thương xót. Nếu Giáo hội không hiệp thông với
Thiên Chúa, giáo hội chỉ là thể chế xã hội chính trị nhân danh tôn giáo, hoặc
giống như một thứ NGO mà thôi. Nếu giáo hội không hiệp thông giữa các tín hữu
Chúa Kitô, giáo hội không thể là chứng nhân và là ngôn sứ trong thế giới. Nếu
các Kitô hữu không liên kết mật thiết với Đức Kitô, họ là những Kitô hữu vô thần,
theo từ ngữ của Đức Giáo hoàng Phanxicô.[16]
Nếu giáo hội không hiệp thông với anh chị em nhân loại, giáo hội không thể
trình bày Thiên Chúa của Đức Giêsu được. Như vậy, đúng như các giáo phụ nói, từ
bàn tiệc của Đấng hiến mình vì Giáo hội, Giáo hội được xuất hiện như sự hiệp
thông để là một dấu chứng cho sự chia rẽ của thế gian.
V. TRỞ VỀ VỚI CHÍNH NGUỒN
CỘI GIÁO HỘI
Điều Công đồng Vatican II trình bày mời
gọi chúng ta đi xa hơn, trở về lại chính cội rễ chúng ta. Chúng ta hãy bắt đầu
lại từ Đức Kitô. Chúng ta hãy đặt mình như một người thông hiệp vào bàn tiệc ly
của Chúa và chúng ta sẽ hiểu nhiều điều rất mới. Chúa Giêsu quy tụ những kẻ thuộc
về Ngài (x. Mt 26:17-26; Mc 14:12-26; Lc 22:8-20). Không phải tự ý các môn đệ bày bàn tiệc đó. Và bàn tiệc
đó nhằm điều rất rõ: Chúa hiến dâng chính mình để phá đổ bức tường ngăn cách là
sự thù ghét (x. Ep 2:14-18). Ngài
không chấp nhận các môn đệ suy nghĩ về quyền bính và địa vị. Với Ngài, người
làm lớn phải là người tôi tớ (x. Lc
22:24-27; Mc 10:32-45). Chúng ta hãy
để cho điều ấy chất vấn cái vô thức về quyền lực mà Alfred Adler đã phân tích
thì chúng ta sẽ hiểu ngay cuộc cách mạng thiêng liêng mà Chúa Giêsu mang đến.
Và Giáo hội sơ khai đã hiểu rất nhiều điều này. Bản văn Cv 2:42tt và 4:42tt phần nào minh chứng điều này.
Hai bản văn này miêu tả vắn gọn nhưng
thâm sâu thực tại Giáo hội phong phú gồm bốn chiều kích hỗ tương và đều quan trọng:
(1) Phụng vụ (leiturgia): Giáo hội được
thiết lập để dâng lên Thiên Chúa lời ca tụng làm sính lễ. Ngày ngày và luôn
luôn, Giáo hội tạ ơn và ca tụng Thiên Chúa, với dạ đơn thành, nhất là trong Lễ
Bẻ Bánh có tên là EUCHARISTIA - LỜI TẠ ƠN VĨ ĐẠI và DUY NHẤT;
(2) Chứng tá (martyria): Giáo hội nhận
lãnh Thánh Thần để làm chứng về Thiên Chúa giàu lòng thương xót hiện hũu và
tình yêu Ngài lấp đầy tất cả khát vọng của con người. Giáo hội làm chứng về một
TIN MỪNG VĨ ĐẠI VÀ DUY NHẤT: ĐỨC GIÊSU KITÔ PHỤC SINH LÀ CHÚA VÀ LÀ TRUNG TÂM CỦA
LỊCH SỬ NHÂN LOẠI VÀ THÂU HỌP VẠN VẬT. Giáo hội làm chứng THÁNH THẦN là nguồn
hy vọng đích thực cho tương lai của thế giới và con người và THIÊN CHÚA LUÔN
LÀM VIỆC;
(3) Hiệp thông (koinonia): các tín hữu để
mọi sự làm của chung, không kể cái gì là của riêng. Họ hiệp thông với Thần khí,
thông hiệp vào các sự thánh thiện cũng như thông hiệp với tất cả các thánh. Sự
hiệp thông ấy mãnh liệt và mới mẻ đến nỗi như trong một thân mình và người này
là chi thể của người kia.
(4) Phục vụ (diakonia): Giáo hội không
thể nào chối bỏ sứ mệnh phục vụ này đến độ Giáo hội sơ khai đã hình thành nên
'cơ cấu' của Diakonia. Giáo hội không sống cho chính mình.
Ở
đây đáng cho chúng ta nhắc lại lời của Đức Bênêđictô XVI: Giáo hội như gia đình
của Thiên Chúa trong trần gian, được sinh động bởi đức ái, caritas-agape, rất
mãnh liệt mà chỉ có thể an nghỉ trong sự hiệp thông các ngôi vị. Chính như thế,
"Bản tính sâu xa nhất của Hội thánh được diễn tả qua ba nhiệm vụ: loan báo
lời Thiên Chúa (kerygma-martyria), cử hành các bí tích (leitourgia) và thi hành
tác vụ bác ái (diakonia)".[17]
Như
thế, xem ra hai bản văn Tân ước trên và trình thuật nói về Đức Giêsu quy tụ các
môn đệ trong bữa tiệc của Ngài liên kết với nhau thật sâu xa. Nếu thế, ta có thể
nói xuất phát lại từ Đức Kitô được tỏ hiện bằng cách xuất phát lại từ Giáo hội
được hiểu như sự hiệp thông mà nguồn sức mạnh của nó lại ở chính Thánh Thể.
KẾT LUẬN
Khi
Đại hội Dân Chúa 2010 nhắc lại lịch sử của một Giáo hội tại Việt nam nổi bật với
dòng máu của các tử đạo, cảm thức của dân Chúa muốn đi xa hơn việc ôn lại một
chuỗi ngày hào hùng của quá khứ. Cảm thức đó nhận rõ rằng một giáo hội chứng tá
đến mức tử đạo sẽ phải là một giáo hội đầy tràn tình yêu mà chỉ an nghỉ trong sự
hiệp thông mà thôi. Cảm thức đó muốn xác minh mạnh mẽ rằng khoa mục vụ của Giáo
hội không thể chỉ dừng lại trên những việc làm mà thôi. Nó phải xuất phát lại từ
nguồn mạch duy nhất và không bao giờ cạn là chính Thiên Chúa và phải đáp ứng những
khao khát sâu thẳm nhất của con người hôm nay. Khoa mục vụ ấy sẽ tỏ ra rất hợp
thời khi minh chứng rằng chỉ trong hiệp thông, Giáo hội và Thần khí mới thốt
lên được "Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến".[18]
Do vậy, một sự hoán cải mang chiều kích giáo hội bó buộc phải làm cho tâm trí,
tình cảm và hành động của người linh mục phải dành trọn vẹn cho sự hiệp thông
như Thiên Chúa mong đợi. Đó là tiêu chuẩn không thể thiếu được cho vị mục tử
theo như lòng Chúa mong ước.
Như
thế, đằng sau những chăm sóc mục vụ, đằng sau những giây phút suy tư trong
thinh lặng và cầu nguyện, đằng sau những sinh hoạt, tổ chức, Giáo hội phải nói
về mình không gì khác hơn một gia đình-hiệp thông, một Dân Thiên Chúa của Thiên
Chúa trên trần gian mà yếu tố nổi bật và hữu hình trong thực hành là sự tham
gia. Khi đó, giáo hội là một hạt mầm tăng trưởng liên lỷ và không thể bị dập tắt
của Nước Thiên Chúa giữa trần gian.
Trong
ánh sáng này, khi mà hằng ngày người linh mục chủ sự cộng đoàn dân Chúa không
chỉ trong phụng vụ mà còn hướng dẫn cộng đoàn trong phụng vụ đời sống nữa, thì
lời của thánh Augustinô nói về Thánh Thể có thể áp dụng cho một lối sống LÀ
GIÁO HỘI MỘT CÁCH MỚI MẺ mà các môn đệ Chúa Kitô luôn chú tâm hiện thực hằng
ngày: O Sacramentum
pietatis! o signum unitatis! o vinculum
caritatis!
[2] Bộ
phụ trách về Đời sống thánh hiến và hiệp hội tông đồ, Huấn thị Xuất phát lại từ Đức Kitô, ss.
21-24.
[4] LG
4.
[5] LG
9.
[6] LG
48.
[8] Xuất phát lại từ Đức Kitô, số 29.
[10] Xuất phát lại từ Đức Kitô, số 27.
[12] x. Peter Hai. Fides
quaerens dialogum.
[13]
FABC/BISA VII, III. 8-13 (For All the Peoples of Asia, vol. 1, p. 231).
[14] Van
Beeck, Catholic Identity After Vatican II,
57.
[15] A.
Pieris, God's Reign for God's Poor, 20.
[16] “Đời
sống Kitô không thể hiểu được nếu không có sự hiện diện của Thánh Thần: [không
có Người] thì đời sống ấy không phải là Kitô. Chỉ là một đời sống đạo vô thần,
đáng buồn.”
[18] x. Sứ điệp của
Đại hội Dân Chúa 2010.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét